Thu nhiếp tâm mình là một
kỳ công tu tập chớ không thể chỉ hiểu
biết trong kinh sách suông là thu nhiếp được tâm.
Chúng ta hãy nghe đức Phật dạy: “Thế nào là các Tỳ
kheo tự thu nhiếp tâm mình? Ấy là các Tỳ kheo
trước quán THÂN trong thân,
tiếp theo quán thân ngoại thân, sau nầy là quán thân trong
thân và ngoại thân. Phải quán một cách siêng năng, không
lười biếng, ghi nhớ không quên để từ bỏ
lòng tham dục, lo buồn của thế gian. Sau khi quan sát
như trên xong, kế tiếp theo quán sát về THỌ, về TÂM và về PHÁP cũng như thế”. (Trường
A Hàm tập một I trang 110)
Đây là đức Phật
dạy tu tập TỨ
NIỆM XỨ. Đầu tiên chúng ta phải tu tập QUÁN THÂN TRONG THÂN, khi quán thân
trong thân cho được thuần thục rồi mới QUÁN THÂN NGOẠI THÂN. Sau khi tu
tập quán thân ngoại thân được thuần
thục rồi mới tu tập kế tiếp QUÁN TRONG VÀ NGOẠI THÂN. Khi quán thân
xong thì tiếp tục quán thọ, quán tâm và quán pháp như
quán thân vậy. Với mục đích quán thân, thọ, tâm và
pháp là để từ bỏ và diệt trừ sạch LÒNG THAM DỤC.
Diệt trừ sạch lòng
tham dục trên tứ niệm xứ là tâm BẤT ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC
VÀ VÔ SỰ. Trạng thái tâm bất động thanh
thản, an lạc và vô sự là trạng thái tâm CHÁNH NIỆM TĨNH GIÁC. Khi một
người thường sống với tâm chánh niệm tĩnh
giác là người đã chứng đạo. Cho nên
chứng đạo của Phật giáo đâu có khó khăn,
đâu có mệt nhọc. Vậy sao quý vị tu hành trông khó
khăn quá, từ ngày này qua ngày khác. Trong thời đức
Phật còn tại thế, đức Phật thuyết
giảng xong một bài pháp là có người xả sạch
ngũ triền cái và thất kiết sử, cho nên nghe xong
là CHỨNG
ĐẠO. Còn bây giờ Thầy nói khan cổ mà không
ai buông bỏ được NGŨ TRIỀN CÁI và THẤT KIẾT SỬ. Biết
những thứ này sinh ra đau khổ mà không buông bỏ
cho thật sạch để chứng đạo như
thời đức Phật vậy.
Nếu một người
biết tu tập thì cứ ngay trên TỨ NIỆM XỨ mà tu
tập làm cho THÂN,
THỌ, TÂM, PHÁP thanh tịnh, không bị ác pháp hay
chướng ngại pháp làm giao động tâm là chứng
đạo.
Pháp môn TỨ NIỆM XỨ là một
pháp môn tu tập chứng đạo, nó đứng hàng
thứ bảy trong BÁT THÁNH
ĐẠO, vì thế quý vị đừng nghe nói
tứ niệm xứ liền ôm pháp tu hành. Quý vị có
thấy không? Các sư Nam Tông mở các các lớp dạy tu
tập TỨ
NIỆM XỨ mà đủ các hạng người tu
sĩ và cư sĩ đều về tu tập, nhưng có
người nào tu tập làm chủ SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT
được đâu. Cuối cùng người tu theo
Phật giáo thì đông vô kể, nhưng làm chủ thì
chẳng có ai cả. Một cuộc lễ Phật giáo
như đản sinh thì tu sĩ và cư sĩ tập trung
lại trùng trùng lớp lớp, người ta thấy
lực lượng Phật giáo ghê thật, nhưng sự
tu tập chân chánh thì khó tìm ra một người.
Ở đây nói pháp tứ
niệm xứ, chớ trình độ tu tập TỨ NIỆM XỨ thì chưa
có ai tu tập được. Tại sao vậy?
Vì đời sống giới
luật chưa có ai sống trọn vẹn như vừa
rồi 7 hạnh sống mà đức Phật đã nêu ra.
Xét cho cùng tìm một người sống đúng 7 hạnh
này đâu phải dễ tìm. Phải không quý vị?
Giới hạnh chưa xong mà
hô hào tu tập TỨ
NIỆM XỨ là để khoe khoang, “háo danh” chớ tu
tập ra gì.
Ai cũng trình bày sự tu
tập của mình là tâm BẤT
ĐỘNG từ một giờ, hai, ba giờ trên
tứ niệm xứ, mà xem lại 7 hạnh ở trên không
được một hạnh nào cả thì quý vị
nghĩ sao? Có phải do tâm háo danh mà người ta sống
trong tưởng không?
Tứ niệm xứ đâu
phải là pháp môn để cho người có gia đình,
chồng con hay vợ con còn ra vào mà tu tập
được sao?
Có bảy đức hạnh mà mỗi
người ai cũng sống được, vì bảy
đức hạnh này giúp cho con người sống
được bình an, yên vui mà không ác pháp làm khổ đau.
Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy bảy
pháp:
“1- Thích
giản dị, không thích sống rờm rà, cầu kỳ.
2-
Ưa thích yên lặng, không thích nói
nhiều.
3-
Ít ngủ nghỉ, không ham ngủ.
4-
Không kết bè, kết bạn, không nói
những điều vô ích.
5-
Không tự khoe khoang trong khi mình thiếu
đức.
6-
Không kết bạn với những
người xấu ác.
7-
Thích ở một mình nơi rừng núi
thanh vắng”.
(Trường A Hàm tập I trang 92)
Đức
Phật dạy bảy đức hạnh này rất
tuyệt vời, nếu một người thực hiện
bảy đức hạnh này thì ngay trong đời này
đã tìm thấy sự giải thoát liền không cần
phải tu tập pháp nào khác nữa.
Nếu
sống với đức hạnh thứ nhất: “Thích
giản dị, không thích sống rờm rà, cầu kỳ”.
Đó là một lối sống đơn giản, không hao
tốn tiền bạc, không rờm rà, ít muốn biết
đủ. Đức hạnh rất phù hợp với
người tu sĩ Phật giáo.
Nếu
sống với đức hạnh thứ hai: “Ưa
thích yên lặng, không thích nói nhiều”. Đó là
một lối sống trầm lặng, sống độc
cư, sống một mình. Đức hạnh này rất phù
hợp với con đường tu tập giải thoát
của Phật giáo.
Nếu
sống với đức hạnh thứ ba: “Ít
ngủ nghỉ, không ham ngủ”. Đó là lối
sống của người thông minh, sáng suốt, minh
mẫn, tĩnh giác. Những người có lối sống
như vậy là lối sống của người tu
sĩ Phật giáo.
Nếu
sống với đức hạnh thứ tư: “Không
kết bè, kết bạn, không nói những điều vô
ích”. Đó là lối sống độc cư phòng
hộ sáu căn, lối sống của những bậc
chân tu, của những người thoát tục, của
những người xuất thế gian.
Nếu
sống với đức hạnh thứ năm: “Không
tự khoe khoang trong khi mình thiếu đức”.
Đó là lối sống khiêm tốn của những bậc
Hiền Thánh, người thế gian không thể làm
được. Người thế gian hễ làm
được những gì thì khoe khoang không hết lời.
Nếu
sống với đức hạnh thứ sáu: “Không
kết bạn với những người xấu ác”.
Người xưa thường nói: “Chọn bạn mà chơi”. Đúng vậy, gần
mực thì đen, gần đèn thì sáng. Chơi với
những người bạn xấu ác thì sẽ ảnh
hưởng xấu và tai tiếng xấu. Đây là một
đức hạnh rất cần thiết cho sự giao
tiếp với mọi người, trong cuộc sống
chung đụng trong gia đình và xã hội.
Nếu
sống với đức hạnh thứ bảy: “Thích
ở một mình nơi rừng núi thanh vắng”.
Đây là đức hạnh của những bậc tu hành
chân chánh sống nơi rừng núi thanh vắng. Bởi tu
hành nơi rừng núi thanh vắng thì mới xả tâm ly
dục ly ác pháp trọn vẹn.
(Mười Hai Cửa Vào Đạo)
No comments:
Post a Comment